Bệnh Ebola là gì ?

1 Star2 Stars3 Stars4 Stars5 Stars (2 votes, average: 5,00 out of 5)
Loading...

Bản thân virus Ebola được phát hiện lần đầu vào năm 1976, nhưng đây chỉ là một thành viên trong họ virus gây nên hội chứng tương tự nhau gọi là sốt xuất huyết virus.

benh-ebola-la-gi

Căn bệnh gây nên bởi virus này rất đột ngột và đáng sợ. Khởi đầu là triệu chứng như bệnh cúm – sốt, đau họng, rất mệt mỏi và đau cơ. Trong một vài ngày phát triển thành buồn nôn, nôn mửa và tiêu chảy.

Trong khi biểu hiện ra những triệu chứng bên ngoài như trên, thì virus lại tấn công nội tạng bên trong, đặc biệt là gan và thận. Khi các nội tạng bị tổn thương, bệnh nhân bắt đầu xuất huyết, cuối cùng chết vì mất máu và nước. Tới nay đã có 2.200 trường hợp được báo cáo, khoảng 1.500 người nhiễm đã tử vong.

Trong khi virus Ebola chủ yếu được phát hiện tại Trung Phi (đợt dịch hiện nay nằm ở phía Tây đợt dịch trước), những con virus gây nên hội chứng sốt xuất huyết virus khác lại phân bố rộng rãi hơn – sốt Lassa (Tây Phi), hantaviru (Đông Á), Junin (Argentina), Crimean – Congo (chủ yếu ở Trung Á và Đông u). Virus Dengue, thường được phát hiện chủ yếu ở vùng nhiệt đới (đặc biệt là Châu Á), có thể nhưng hiếm gặp, gây ra hội chứng tương tự.

Có năm chủng Ebola và chúng phân biệt nhau ở cơ chế lây bệnh và làm tử vong. Những vụ dịch bệnh đáng chú ý nhất có liên quan đến chủng Sudan và Zaire; con thứ hai có liên quan đến vụ dịch bệnh hiện nay.

Ebola được cho là bắt nguồn từ dơi ăn quả và các trường hợp đầu tiên tại người có nguyên nhân từ tiếp xúc với động vật bị lây nhiễm, bao gồm tinh tinh, gozila và khỉ. Nhưng vụ dịch hiện nay xảy ra do lây từ người sang người.

Bệnh Ebola lây lan như thế nào?

Một tin tốt, sự lây lan của virus nếu có xảy ra thì có thể kiểm soát được, và không dễ dàng lây nhiễm như bạn nghĩ khi xem các bộ phim về dịch do virus.

Không giống như SARS (Hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng), vốn lây lan nhanh chóng do tiếp xuc với các giọt chất lỏng nhỏ và tác nhân gây bệnh từ môi trường, và khó kiểm soát thậm chí dù ở các nước phát triển như Canada và Singapore. Bệnh Ebola cần có yêu cầu là tiếp xúc với chất dịch của người bị nhiễm. Điều này đồng nghĩa với Ebola chỉ thường lây lan khi có tiếp xúc gần đối với người bị nhiễm – chủ yếu là thành viên trong gia đình, nhân viên y tế và những người liên quan đến mai táng bệnh nhân.

Tổ chức Y tế Thế giới chỉ khuyến cáo “biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn” để ngăn ngừa mọi người tiếp xúc gần với chất tiết người bị nhiễm. Biện pháp này bao gồm cả đeo găng tay, mặc áo phòng hộ, đeo mặt nạ và đồ bảo vệ mắt, đảm bảo khử trùng tay và thiết lập hệ thống để quản lý công tác đánh giá, chăm sóc bệnh nhân và dọn dẹp, xử lý chất thải.

Người bị sốt xuất huyết virus chảy máu và nôn, và những chất dịch này có khả năng lây nhiễm. Công tác huấn luyện cho những nhân viên y tế, đặc biệt nhân viên ở các vùng chưa từng biết đến căn bệnh Ebola trước đó, dường như khó có thể giúp họ chấp nhận và chăm sóc cho bệnh nhân bị nhiễm, hay giúp họ tuân thủ được những yêu cầu kiểm soát nghiêm ngặt giúp ngăn chặn lây lan.

Kiềm chế dịch bệnh Ebola bùng phát

benh-ebola-la-gi

Và đây vẫn còn là bài toán hóc búa hơn cả; Dịch Ebola có xu hướng bùng phát ở những nơi có cơ sơ hạ tầng y tế bị thiếu thốn trầm trọng.

Sự thiếu thốn trên làm ảnh hưởng đến mọi nỗ lực nhằm kiểm sát dịch bệnh. Guinea- nơi đang xảy ra dịch bệnh, cũng được báo cáo là đang vật lộn với bệnh sởi, tả và viêm màng não.

Nhưng không hẳn là thiếu thốn mọi thứ. Các tổ chức cứu trợ, tổ chức Bác sĩ Không Biên Giới, đang hỗ trợ các đội ngũ và cơ sở vật chất qua đường hàng không để giúp kiểm soát vụ dịch Ebola. Những tổ chức này đã có kinh nghiệm tại khu vực này thông qua việc tham gia vào các tình trạng khẩn cấp trước đó.

Tổ chức nhấn mạnh rằng, dịch bệnh này đặt ra những khó khăn đặc biệt, chẳng hạn như diễn ra ở nhiều nơi trong khu vực, đồng thời cũng cách xa nhau, do đó gây trở ngại cho những nỗ lực để kiểm soát dịch bệnh. Và vì thời kỳ ủ bệnh của virus có thể kéo dài đến ba tuần, chúng ta sẽ không biết những biện pháp kiểm soát đang được áp dụng trong thời gian ngắn sẽ đem lại kết quả ra sao.

Hãy cùng hy vọng rằng các nỗ lực của quốc tế và địa phương hiện nay để giúp kiểm soát sự lây lan của bệnh Ebola sẽ chặn đứng con số người bị nhiễm bệnh đang gia tăng.

Bệnh do vi rút Ebola

Bệnh do vi rút Ebola (EVD) hay sốt xuất huyết Ebola (EHF) là bệnh do vi rút Ebola gây ra ở người. Các triệu chứng thường khởi phát sau khi bị nhiễm vi rút 2 ngày đến 3 tuần, với sốt, đau họng, đau bắp cơ, và nhức đầu. Sau đó thường xuất hiện các triệu chứng buồn nôn, nôn ói, và tiêu chảy, kèm theo chức năng gan và thận cũng bị suy giảm. Ở giai đoạn này, một số người bắt đầu có các triệu chứng xuất huyết.

Con người có thể nhiễm vi rút Ebola do tiếp xúc với máu hoặc chất dịch cơ thể của động vật bị nhiễm (thường là khỉ hoặc loài dơi ăn trái). Sự lây truyền qua không khí trong môi trường tự nhiên vẫn chưa được chứng minh. Loài dơi ăn trái được cho là mang truyền vi rút Ebola mà không hề bị bệnh. Một khi con người bị nhiễm bệnh, thì bệnh cũng có thể lây truyền từ người này sang người khác. Nam giới sống sót sau khi nhiễm bệnh Ebola có thể truyền bệnh qua tinh dịch trong gần 2 tháng. Để chẩn đoán bệnh, trước tiên cần phân biệt loại trừ các bệnh khác có triệu chứng tương tự chẳng hạn sốt rét, dịch tả và các bệnh sốt xuất huyết do vi rút khác. Để xác định bệnh, mẫu máu được xét nghiệm để tìm kháng thể vi rút, ARN của vi rút, hoặc chính con vi rút Ebola.

Phòng bệnh bao gồm làm giảm sự lây lan bệnh từ heo và khỉ bị nhiễm sang con người. Việc này được thực hiện bằng cách kiểm tra bệnh các loài động vật này và bằng cách giết chết và tiêu hủy đúng cách xác động vật chết nếu phát hiện chúng bị bệnh. Thịt được nấu chín kỹ và mặc quần áo bảo hộ khi xử lý thịt cũng giúp phòng bệnh, cũng như mặc quần áo bảo hộ và rửa tay khi ở gần người mắc bệnh để phòng bệnh. Các mẫu mô và chất dịch cơ thể của người mắc bệnh cần được xử lý đặc biệt thận trọng.

Không có phác đồ điều trị đặc hiệu; các nỗ lực nhằm giúp người bệnh bao gồm hoặc là cho điều trị mất nước bằng đường uống (nước uống hơi ngọt hơi mặn) hoặc là cho dịch truyền bằng đường tĩnh mạch. Bệnh có tỉ lệ tử vong cao: thường từ 50% đến 90% số người nhiễm vi rút Ebola bị tử vong. [3] EVD được phát hiện đầu tiên ở Sudan và Cộng hòa Dân chủ Congo. Bệnh thường bộc phát thành dịch ở những vùng nhiệt đới của châu Phi cận Sahara. Từ 1976 (khi lần đầu được phát hiện) cho đến 2013, chưa tới 1000 người bị nhiễm bệnh mỗi năm. Dịch bệnh lớn nhất cho đến nay là dịch Ebola Tây Phi 2014 đang hoành hành ở Guinea, Sierra Leone, Liberia và có thể Nigeria. Tính tới ngày 3 tháng 10 năm 2014, 7.497 trường hợp bị nghi ngờ mắc bệnh trong số đó đã có 3.439 người đã chết. Hiện người ta đang nỗ lực chế tạo vắc xin; tuy nhiên, vẫn chưa có vắc xin nào.

Chu kỳ cuộc sống của Ebola virus

Bệnh virus Ebola bị gây ra bởi bốn trong nhóm năm loài virus Ebola, họ Filoviridae, bộ Mononegavirales. Những loại virus đó là Bundibugyo (BDBV), Ebola (EBOV), Sudan (SUDV), và virus rừng Taï (TAFV, tên trước đây và tên thường gọi cũng là virus Ebola Bờ Biển Ngà (CIEBOV)). Loại thứ năm, Reston virus (RESTV), được cho là không gây ra bệnh trên con người. Khi bệnh bộc phát ra, những người có nguy cơ mắc bệnh nhất là những người chăm sóc bệnh nhân, hoặc có tiếp xúc gần gũi với bệnh nhân.

Các triệu chứng của bệnh Ebola

benh-ebola-la-gi

Bệnh này thường bắt đầu với dấu hiệu và các triệu chứng giống bệnh cúm như sốt, đau đầu, mệt mỏi, đau cơ, khớp và cơ bụng. Nôn mửa, tiêu chảy và chán ăn cũng là các triệu chứng phổ biến.

EVD / EHF về mặt lâm sàng không thể phân biệt được với bệnh virus Marburg (MVD), và nó cũng có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với nhiều bệnh phổ biến khác ở vùng xích đạo châu Phi, chẳng hạn như các virus sốt xuất huyết, sốt rét falciparum, sốt thương hàn, bệnh vi khuẩn Shigella, bệnh rickettsial, bệnh tả, nhiễm trùng huyết hoặc EHEC ruột Gram âm. Các nghiên cứu chi tiết nhất về tần suất, bắt đầu thời gian, và các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng EVD đã được thực hiện trong sự bùng phát bệnh năm 1995 tại Kikwit, Zaire (EBOV) và đợt bùng phát bệnh giai đoạn 2007-2008 ở Bundibugyo, Uganda (BDBV). thời gian ủ bệnh trung bình của dịch EVD do EBOV là 12,7 ngày (độ lệch chuẩn = 4.3 ngày), nhưng có thể dài đến 25 ngày. giai đoạn đầu giống như cúm đặc trưng bởi sốt, khó chịu nói chung với ớn lạnh, đau khớp,đau cơ và đau ngực. Buồn nôn kèm theo đau bụng, chán ăn, tiêu chảy và nôn mửa,viêm họng với đau họng, ho, khó thở, và nấc cụt.

Hệ thống thần kinh trung ương bị ảnh hưởng được đánh giá bởi sự phát triển của đau đầu nghiêm trọng, tình trạng kích động, lú lẫn, mệt mỏi, trầm cảm, co giật, và đôi khi hôn mê. Hệ thống tuần hoàn cũng thường xuyên tham gia, với các dấu hiệu nổi bật nhất là phù nề và viêm kết mạc. Các triệu chứng xuất huyết là không thường xuyên (ít hơn 10% trường hợp cho hầu hết các type huyết thanh), (lý do tại sao bệnh sốt xuất huyết Ebola (EHF) là một cái tên nhầm lẫn) và bao gồm nôn ra máu, ho ra máu, phân đen, và chảy máu từ màng nhầy (gastroinestinal đường, mũi, âm đạo và nướu).

Biểu hiện trên da có thể bao gồm: phát ban đốm diện rộng, đốm xuất huyết, xuất huyết ban, các vết bầm máu, và máu tụ (đặc biệt là xung quanh các trang điểm kim tiêm). Tiến triển các triệu chứng xuất huyết là dấu hiệu của một tiên lượng tiêu cực. Tuy nhiên, trái với niềm tin phổ biến, xuất huyết không dẫn đến hypovolemia và không phải là nguyên nhân cái chết (mất máu tổng số thấp, ngoại trừ trong quá trình lao động). Thay vào đó, cái chết xảy ra do hội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan (MODS) do tái phân phối chất lỏng, hạ huyết áp, phổ biến, đông máu nội mạch, và hoại tử mô trung tâm. Hiện nay, bệnh Sốt xuất huyết do virus Ebola chưa có vaccine dự phòng.

Phòng tránh bệnh Ebola

Virus Ebola lây sang người thông qua tiếp xúc với máu, chất tiết, bộ phận cơ thể hoặc dịch thể khác của người, động vật bị nhiễm bệnh. Để phòng bệnh, cần thực hiện vệ sinh cá nhân (rửa tay bằng xà phòng, chất sát khuẩn,…), tránh tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết của người, động vật nhiễm bệnh; không cầm, nắm các vật có thể đã tiếp xúc với máu, dịch tiết của người, động vật nhiễm bệnh trước đó.

Nguồn: Cao đẳng Y Dược